Nâng cao hiệu quả học văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn bậc trung học cơ sở
Môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở (THCS) góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho các em hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác.
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỌC VĂN BẢN NHẬT DỤNG TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ
PHẦN THỨ I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn Ngữ Văn có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của
trường Trung học cơ sở (THCS) góp phần hình thành những con người có học vấn
phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho các em hoặc ra đời hoặc tiếp tục học lên ở bậc học
cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng
gia đình, bè bạn; có lòng yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư
tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng
căm ghét cái xấu, cái ác.
Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo,
bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước
hết là trong văn học, có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như
một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Cho đến nay, hầu hết các văn bản được đưa ra giảng trong nhà trường đều là
tác phẩm văn chương hư cấu. Mục tiêu môn ngữ văn cũng như phương hướng tích
hợp đòi hỏi học sinh (HS) phải tiếp xúc với loại văn bản đa dạng hơn và tất cả đều
gọi chung là văn bản. Dĩ nhiên phần lớn vẫn là tác phẩm văn chương có hư cấu,
song bên cạnh sẽ có ít văn bản thuộc loại văn không có hư cấu, trong đó có văn
bản nghị luận (xã hội và văn học) và văn bản nhật dụng. Do yêu cầu gắn với cuộc
sống nên trong hệ thống các văn bản được học ở THCS có điểm mới là những văn
bản nhật dụng. Đó là những văn bản được lựa chọn theo đề tài gắn với những vấn
đề rất thời sự và cập nhật với đời sống hiện tại như: môi trường, dân số, di tích văn
hoá, danh lam thắng cảnh, các tệ nạn xã hội như ma tuý, thuốc lá, lao động trẻ em,
các vấn đề tương lai nhân loại như bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh, bảo vệ
quyền lợi của bà mẹ, trẻ em, vấn đề hội nhập và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc …
Chính vì thế trong các văn bản nhật dụng này có tính lâu dài của sự phát triển
lịch sử xã hội. Chẳng hạn vấn đề môi trường, dân số, bảo vệ di sản văn hoá, chống
chiến tranh hạt nhân, giáo dục trẻ em, chống hút thuốc lá…đều là những vấn đề
của hôm nay nhưng đâu phải giải quyết triệt để ngày một ngày hai.
Giá trị văn chương không phải là yêu cầu cao nhất nhưng đó vẫn là một yêu
cầu quan trọng. Các văn bản nhật dụng vẫn thuộc về một kiểu văn bản nhất định:
miêu tả, kể chuyện, thuyết minh, nghị luận, điều hành…nghĩa là văn bản nhật dụng
có thể sử dụng mọi thể loại, mọi kiểu văn bản.
Đối với học sinh THCS các em mới được làm quen với văn bản nhật dụng
nên còn nhiều bỡ ngỡ. Bên cạnh đó thực tế các trường THCS hiện nay nhiều đồng
chí giáo viên chưa thật quan tâm thích đáng đến phần văn bản này. Do đó vận dụng
đổi mới phương pháp trong tiết dạy văn bản nói chung và văn bản nhật dụng nói
riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Học sinh học văn bản nhật dụng không chỉ để
mở rộng hiểu biết toàn diện mà còn tạo điều kiện tích cực để thực hiện nguyên tắc
giúp các em hoà nhập với cuộc sống xã hội, rút ngắn khoảng cách giữa nhà trường
và xã hội.
Nhìn lại hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn chiếm 10% nhưng
tác giả của SGK chỉ hướng dẫn giáo viên trong SGV những chỉ dẫn quan trọng để
nhận diện văn bản nhật dụng.Trong khi trước đó, lý luận dạy học văn chưa từng
đặt vấn đề về phương pháp dạy văn bản nhật dụng. Thực trạng này cho thấy sự cần
thiết phải tiếp cận với một tầm sâu hơn, có hệ thống hơn các văn bản nhật dụng cả
về kiến thức và phương pháp giảng dạy, từ đó góp phần tạo thành cơ sở mang tính
khoa học và khả thi khi đáp ứng yêu cầu dạy học có hiệu quả.
Trong thực tiễn dạy học văn bản nhật dụng ở THCS hiện nay đã bộc lộ những
bất cập trong kiến thức và phương pháp. Sự mơ hồ về hình thức hiểu loại văn bản
nhật dụng, nhất là hình thức phi văn học, sự lạ lẫm khi xác định mục đích của các
bài học văn bản nhật dụng khác xa với bài học tác phẩm văn chương, những yêu
cầu mới hơn trong việc chuẩn bị các thông tin ngoài văn bản ở cả hai phía giáo
viên và học sinh, cách đa dạng hoá các hệ thống dạy học như thế nào là tương hợp
với bài học văn bản nhật dụng, sử dụng như thế nào các phương pháp dạy học nhất
là các phương pháp dạy học mới trong hoạt động dạy và học, tạo không khí lớp
học như thế nào để tăng tính hứng thú và hiệu quả dạy học tích cực cho các bài văn
bản nhật dụng… là những vấn đề không thể bỏ qua hoặc giải quyết hời hợt.
Chính vì lý do trên mà tôi luôn trăn trở tìm cho mình những giải pháp. Qua
thực tế, tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm nhỏ, đưa ra hướng giải quyết một số
khúc mắc trong hoạt động dạy học văn bản nhật dụng trong SGK Ngữ văn THCS
để dần dần tháo gỡ những khó khăn khăn, giúp giáo viên hoàn thành tốt các yêu
cầu, mục tiêu dạy học văn bản nhật dụng và học sinh nhận thức sâu sắc hơn những
vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
Dựa trên cơ sở vai trò và tầm quan trọng của văn bản nhật dụng là tính thời
sự, cập nhật với đời sống hiện tại và việc học tập của HS trường THCS Phụ Khánh
tôi đề xuất một số biện pháp dạy học góp phần tạo hứng thú, nâng cao chất lượng
học tập của HS đồng thời nâng cao hiệu quả giờ lên lớp của giáo viên.
Do thời gian có hạn nên tôi chỉ tập trung vào cụm văn bản nhật dụng từ lớp 6
đến lớp 9.
PHẦN THỨ II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Thực trạng vấn đề
Cũng giống như các môn học khác, môn Ngữ văn giáo dục kiến thức, kĩ năng,
thái độ. Ngoài ra môn Ngữ văn còn bộc lộ rõ nét hơn, phong phú hơn đó là phải
hoà hợp 3 phân môn trong một chỉnh thể bài học với các mục tiêu tích hợp của nó
nhưng lại vừa tách tương đối với mỗi phân môn thành từng bài học đảm bảo các
mục tiêu cụ thể do đặc trưng của mỗi phân môn đòi hỏi; hơn nữa yêu cầu đọc -
hiểu theo kiểu văn bản, theo các loại hình nội dung văn bản còn đòi hỏi tính định
hướng rõ rệt hơn trong việc xác định mục tiêu bài học.
Văn bản nhật dụng không phải là một khái niệm chỉ thể loại hoặc chỉ kiểu văn
bản, nhưng không có nghĩa chúng là các hình thức vô thể loại. Tuy nhiên sự nhìn
nhận một số văn bản theo loại hình nội dung đáp ứng nhu cầu cập nhật về đề tài,
gợi quan tâm chú ý của người học về những vấn đề thời sự xã hội có ý nghĩa bức
thiết đối với mỗi cá nhân và cộng đồng đã khiến sự có mặt của văn bản nhật dụng
trong chương trình Ngữ văn THCS có thể chưa cần là sự hiện diện của các hiện
tượng thẫm mĩ tiêu biểu, mà cần hơn là trong tư cách của các thông điệp tư tưởng
được trình bày dưới dạng văn bản ngôn từ.
Từ nhận thức này, ta thiết kế hoạt động dạy học văn bản nhật dụng mà trước
hết là việc xác định mục tiêu của bài học.
Vậy đâu là mục tiêu đặc thù của bài học văn bản nhật dụng?
Có 2 mục tiêu quan trọng là trang bị kiến thức và trau dồi tư tưởng, tình cảm,
thái độ.
Với kiến thưc, bài học văn bản nhật dụng giúp HS hiểu đúng ý nghĩa xã hội
mà chủ yếu là ý nghĩa thời sự cập nhật gần gũi qua việc nắm bắt vấn đề được đề
cập tới trong văn bản.
Đối với tác phẩm văn chương, hoạt động đọc - hiểu là việc đọc nghiền ngẫm,
phân tích, cảm thụ những vẻ đẹp của nghệ thuật ngôn từ, để từ đó hiểu được những
khái quát về dời sống tác giả. Nghĩa là người đọc tự mình khám phá và rung động
về ý nghĩa đời sống và giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Đó chính là mục tiêu kiến
thức của bài học văn bản nghệ thuật.
Còn đối với văn bản nhật dụng thì mục tiêu kiến thức của bài học sẽ nhấn vào
nội dung tư tưởng của văn bản, tức là nắm bắt vấn đề xã hội gần gũi, bức thiết,
mang tính thời sự hơn là đi sâu vào khám phá giá trị hình thức của văn bản. Như
vậy, việc xác định mục tiêu kiến thức của bài học văn bản nhật dụng
phải bắt đầu từ sự rõ ràng trong phân loại văn bản.
Chẳng hạn, cùng một văn bản như “ Cuộc chia tay của những con búp bê” nếu
quan niệm đây là một tác phẩm văn chương hư cấu thì yêu cầu đọc - hiểu sẽ bao
gồm phát hiện, bình giá trên nhiều phương tiện của sáng tạo nghệ thuật như: cốt
truyện, nhân vật, cách kể và cuối cùng là sự cảm nhận về khái quát xã hội của tác
giả, biểu hiện ở các lớp nghĩa của tác phẩm như: vấn đề cái giá của bi kịch gia đình
trong các vụ li hôn, mái nhà yên ấm, cần thiết như thế nào đối với con trẻ, vẻ đẹp
tình anh em, hoặc vấn đề quyền trẻ em…
Nhưng nhìn nhận văn bản này là một văn bản nhật dụng thì phạm vi đọc -
hiểu cho dù không thể bỏ qua các dấu hiệu hình thức nổi bật của văn bản, nhưng
chủ yếu là phát hiện nội dung, chưa cần là các chủ đề khái quát những vấn đề sâu
xa của đời sống và số phận của con người, mà chỉ cần là vấn đề xã hội đặt ra trong
văn bản gần gũi với HS, thức dậy không chỉ sự chia sẻ bất hạnh với bạn bè đồng
cảnh ngộ mà còn ý thức về quyền hưởng niềm vui và hạnh phúc.
Đó chính là ý nghĩa cập nhật của bài học này và cũng chính là mục tiêu kiến
thức chủ yếu của VB nhật dụng:“Cuộc chia tay của những con búp bê”.
Những biến chuyển của xã hội không chỉ làm thay đổi tích cực thời đại, nâng
cao cuộc sống con người mà còn tạo ra vô số những tiêu cực và hiểm họa mà chính
ta cần nhận thức và ứng phó không phải trên phạm vi một dân tộc, một quốc gia
mà cả toàn cầu, vì sự tốt đẹp, bền vững của cuộc sống trên trái đất.
Chẳng hạn vấn đề ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội và sức khoẻ cộng đồng,
vấn đề dân số, quyền sống của trẻ em, vấn đề chống chiến tranh hạt nhân, bảo vệ
hoà bình thế giới…
Về hình thức thể hiện, các văn bản nhật dụng không nằm ngoài cách thức của
phương thức biểu đạt (PTBĐ) nào đấy.
Có thể nhận ra phương thức thuyết minh nổi trội trong văn bản “Ôn dịch,
thuốc lá”, “ Thông tin về ngày trái đất năm 2000” nhưng ở những văn bản khác
như “ Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử” hay là “Ca Huế trên sông Hương”
không thuần tuý thuyết minh khi yếu tố miêu tả và biểu cảm đan xen.
Trong khi PTBĐ biểu cảm nổi bật trong văn bản “Cổng trường mở ra”, “Mẹ
tôi”, “ Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” thì tính nghị luận lại là cách biểu đạt làm thành
sức truyền cảm của các văn bản khác như “ Phong cách Hồ Chí Minh” “Đấu tranh
cho một thế giới hoà bình”
Như vậy, dạy học văn bản nhật dụng vẫn theo nguyên tắc dựa vào các dấu
hiệu hình thức để khám phá nội dung biểu đạt nhưng không phải là mục tiêu chính
của bài học văn bản nhật dụng. Mà việc cung cấp và mở rộng hiểu biết về những
vấn đề gần gũi, bức thiết đang diễn ra trong đời sống xã hội hiện đại, từ đó tăng
cường ý thức công dân đối với cộng đồng trong mỗi học sinh. Đó sẽ là định hướng
mục tiêu chung của các bài học văn bản nhật dụng cần được quán triệt trong dạy
học phần văn bản nhật dụng ở chương trình THCS.
2. Các biện pháp đã tiến hành:
Giáo viên thu thập (đồng thời giao cho các nhóm học sinh cùng sưu tầm) các
tư liệu ngoài văn bản liên quan đến chủ đề văn bản trên các nguồn thông tin đại
chúng ( phát thanh, truyền hình, mạng internet, báo chí, sách vở, tranh ảnh, âm
nhạc…) làm tư liệu cho dạy học văn bản nhật dụng gắn kết với đời sống.
Ví dụ:
Để chuẩn bị cho bài học “Ôn dịch, thuốc lá” giáo viên cần thu thập tư liệu
(như tranh, ảnh, báo chí… ) về các bệnh do thuốc lá gây ra, lấy đó làm chất liệu
minh hoạ cho bài giảng. Đồng thời cũng giao cho HS sưu tầm các tài liệu như
tranh, ảnh, báo chí…
Yêu cầu truyền thông cập nhật của các chủ đề nhật dụng đòi hỏi các hình thức
tổ chức dạy học đáp ứng cung cấp và khai thác thông tin nhanh và phong phú tới
người học. Các phương tiện dạy học truyền thống như bảng đen, phấn trắng, thậm
chí cả máy Projector là cần thiết nhưng chưa thể đáp ứng được hết yêu cầu dạy học
văn bản nhật dụng theo tinh thần nói trên.
Ở đây hệ thống tư liệu bồi đắp trực tiếp cho chủ đề văn bản nhật dụng và mở
rộng chủ đề đó ngoài văn bản (báo chí, mĩ thuật, điện ảnh…) nếu được thu thập
thiết kế và trình chiếu trên các phương tiện dạy học điện tử sẽ là phương tiện tạo
hiệu ứng tích cực nhất trong dạy học văn bản nhật dụng.
Ví dụ dạy văn bản :
“ Ca Huế trên sông Hương” ta có thể dùng đĩa ghi hình về Huế, ghi âm về
các làn điệu ca Huế cùng các làn điệu dân ca đặc sắc trên mọi miền đất nước thì
chắc chắn rằng sẽ tạo hiệu quả cao trong việc dạy - học.
+ Phương hướng dạy học
- Dạy học phù hợp với phương thức biểu đạt.
Nhìn lại hệ thống văn bản nhật dụng trong SGK THCS
Tên văn bản
PTBĐ
Thể loại
Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử
Bức thư của thủ lĩnh da đỏ
Động Phong Nha
Thuyết minh
Biểu cảm
Bút kí
Thuyết minh
Biểu cảm
Bút kí
Cổng trường mở ra
Mẹ tôi
Biểu cảm
Cuộc chia tay của những con búp bê
Ca Huế trên sông Hương
Tự sự
Truyện ngắn
Thuyết minh
Thuyết minh
Thuyết minh
Nghị luận
Bút kí
Thông tin về ngày trái đất năm 2000
Ôn dịch, thuốc lá
Bài toán dân số
Phong cách Hồ Chí Minh
Thuyết minh
Nghị luận
Đấu tranh cho một thế giới hoà bình
Tuyên bố thuế giới về sự sống còn, quyền
được bảo vệ và phát triển của trẻ em
Ta thấy:
Nghị luận
- Nếu gọi tên văn bản nhật dụng bằng thể loại văn học, thì ngoại trừ “Cuộc
chia tay của những con búp bê”, “Cầu Long Biên, chứng nhân lịch sử”, “Động
Phong Nha”, “Ca Huế trên sông Hương”, còn lại phần lớn là các bức thư, bài báo
khoa học khó gọi chúng bằng tên thể loại. Trong khi nếu xác định hình thức của
văn bản này theo PTBĐ dẽ dàng nhận ra kiểu văn bản của chúng. Điều đó cho thấy
dạy văn bản nhật dụng đáp ứng mục đích và cách thức biểu đạt sẽ phù hợp hơn so
với dạy học chúng theo đặc trưng thể loại văn học.
Khi thiết kế chương trình dạy học văn bản nhật dụng, các tác giả SGK Ngữ
văn THCS nhấn mạnh rằng dạy học văn bản nhật dụng chủ yếu là tập trung khai
thác vấn đề nội dung tư tưởng đặt ra ở mỗi văn bản. Nhưng trong bất kỳ văn bản
nào, nội dung không nằm ngoài hình thức tương ứng của nó, cho nên việc đọc -
hiểu nội dung văn bản nhật dụng không nằm ngoài nguyên tắc đi từ các dấu hiệu
tình thức biểu đạt tới khám phá mục đích giao tiếp trong hình thức ấy cho dù
không cần sa đà vào hình thức của chúng. Trong dạy học VB không thể hiểu đúng
nội dung tư tưởng văn bản nếu không được đọc từ dấu hiệu hình thức của chúng.
Chẳng hạn nếu văn bản nhật dụng được tạo theo PTBĐ tự sự như Cuộc chia
tay của những con búp bê” thì hoạt động dạy học sẽ được tiến hành theo các yếu tố
tự sự đặc trưng như: sự việc, nhân vật, lời văn, ngôi kể; từ đó hiểu chủ đề nhật
dụng đặt ra trong văn bản này là vấn đề quyền trẻ em trong cuộc sống phức tạp của
gia đình thời hiện đại.
Khi văn bản được tạo theo phương thức biểu cảm như “ Cổng trường mở ra”
nhằm mục đích nhận thức vai trò của nhà trường đối với sự tiến bộ của mỗi con
người, thì con đường dạy học để hiểu mục tiêu ấy từ văn bản sẽ dạy học theo các
dấu hiệu của văn bản biểu cảm, biểu hiện qua lời nói thấm đẫm cảm xúc tư duy của
tác giả và giàu có hình ảnh liên tưởng trong mỗi sự việc.
Do mục đích trình bày, thảo luận để thuyết phục bạn đọc theo những vấn đề
thời sự khoa học, chính trị, xã hội được mọi người quan tâm trong cuộc sống
đương thời, nên PTBĐ phổ biến của các văn bản nhật dụng thường là thuyết minh
và nghị luận. Nhưng cũng như trong mọi văn bản thông thường khác, điều đó
không chỉ thuần tuý một phương thức nghị luận hay thuyết minh.
Trong văn bản nhật dụng, sự đan xen các yếu tố phương thức khác thường
xuất hiện khi người viết không chỉ trình bày các tri thức về đối tượng hoặc sự
nhận thức tỏ tường về hiện tượng mà còn muốn làm cho sự vật, hiện tượng được
trình bày hiện lên rõ nét, đồng thời thể hiện trong đó cảm xúc, sự suy tư của mình.
Chẳng hạn, nếu lời văn giàu tư liệu, hình ảnh và cảm xúc là những nét hình
thức nổi bật của văn bản thuyết minh “ Cầu Long biên- chứng nhân lịch sử” thì
dạy học tương ứng sẽ nhấn vào các chi tiết miêu tả và biểu cảm.
Ví dụ: ? Những cuộc chiến tranh nào đã đi qua trên cầu Long Biên?
? Việc nhắc lại những câu thơ của Chính Hữu gắn liền với những ngày đầu
năm 1947 – ngày Trung đoàn Thủ đô vượt cầu Long Biên đi kháng chiến đã xác
nhận ý nghĩa chứng nhân nào của cầu Long Biên?
?Số phận của cầu Long Biên trong những năm chống Mĩ được ghi lại thế nào?
? Lời văn miêu tả trong đoạn này có gì đặc biệt?
? Từ đó, cầu Long Biên đóng vai trò chứng nhân chiến tranh như thế nào?
? Tác giả đã chia sẻ tình cảm như thế nào đối với cây cầu chứng nhân này?
+ Nếu thuyết minh kết hợp với nghị luận, miêu tả và bộc lộ cảm xúc là đặc
điểm hình thức của văn bản “ Ca Huế trên sông Hương” thì vận dụng việc dạy học
tương ứng sẽ chú ý đến phát hiện và phân tích ý nghĩa biểu đạt của các yếu tố đó
trong văn bản.
Ví dụ:Về hình thức văn bản này kết hợp nhiều hình thức như nghị luận, chứng
minh, miêu tả, biểu cảm.
Hãy quan sát mỗi phần văn bản để xác định PTBĐ chính của mỗi phần
+ Nếu phương thức lập luận kết hợp với biểu cảm là hình thức tồn tại của văn
bản “ Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” thì dạy học tương ứng sẽ theo phương
hướng khám phá lí lẽ và chứng cớ thể hiện quan điểm được nêu ra trong văn bản
qua đó là thái độ nhiệt tình của tác giả.
Ví dụ có thể tổ chức cho HS đọc hiểu phần cuối văn bản bằng hệ thống câu
hỏi sau: ? Phần cuối văn bản có 2 đoạn văn. Đoạn văn nào nói về chúng ta chống
vũ khí hạt nhân?
? Đoạn nào là thái độ của tác giả về việc này?
? Em hiểu thế nào về “bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới
không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng”?
? Ý tưởng của tác giả về việc “ mở một nhà băng lưu trữ trí nhớ có thể tồn tại
được sau thảm hoạ hạt nhân” bao gồm những thông điệp gì?
? Em hiểu gì về tác giả từ những thông điệp đó của ông?
GV: tóm tắt
- Bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một
cuộc sống hoà bình, công bằng là tiếng nói của công luận thế giới chống chiến
tranh, là tiếng nói yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới.
- Thông điệp về một cuộc sống đã từng tồn tại trên trái đất về những kẻ đã xoá
bỏ cuộc sống trên trái đất này bằng vũ khí hạt nhân.
- Tác giả là người yêu chuộng hoà bình, quan tâm sâu sắc đến vũ khí hạt nhân
với nỗi lo lắng cao độ.
Dạy học văn bản nhật dụng chú ý các dấu hiệu cách thức biểu đạt này không
chỉ vì sự cần thiết trong kiến thức đọc – hiểu mà còn vì yêu cầu của dạy học tích
hợp trong mọi bài học ngữ văn.
+ Dạy học tích hợp.
Dạy học văn bản nhật dụng cũng yêu cầu phương pháp tích hợp. Văn bản nhật
dụng có thể là văn bản văn học nhưng cũng có thể là văn bản phi văn học. Dạy học
văn bản nhật dụng theo đặc trưng phương thức biểu đạt (PTBĐ) của mỗi văn bản
đòi hỏi phải tích hợp kiến thức, kỹ năng của cả hai phân môn văn (đọc – hiểu) với
Tập làm văn ( kiểu văn bản).
Ví dụ như dạy học văn bản nhật dụng “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình”,
khi chú ý đến cấu trúc văn bản có ý thức tích hợp đọc văn với đặc trưng của văn
bản nghị luận.
* Câu hỏi đàm thoại
? Văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” nhằm thể hiện một tư
tưởng nổi bật. Đó là tư tưởng nào?
* Câu hỏi trắc nghiệm:
? Tư tưởng ấy được biểu hiện trong hệ thống gồm 4 luận điểm. Hãy tách đoạn
văn theo các luận điểm này:
- Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe doạ cuộc sống trên trái đất.
- Sự tốn kém của cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân.
- Tính phi lý của chiến tranh hạt nhân.
- Loài người cần đoàn kết để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân vì một thế giới
hoà bình.
* Câu hỏi thảo luận:
? Tại sao lại coi đây là một bài văn nghị luận chính trị - xã hội?
GV: tóm tắt
- Tư tưởng “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” được trình bày trong một
hệ thống 4 luận điểm.
- Đây là bài nghị luận chính trị - xã hội vì nội dung được trình bày là thái độ
đối với vấn dề chiến tranh hạt nhân.
Trong dạy văn bản nhật dụng, gắn kết tri thức trong văn bản với các tri thức
ngoài văn bản liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung văn bản cũng là một
phương diện của dạy học tích hợp.
Ví dụ 1: Trong bài “ Ca Huế trên sông Hương” có thể hỏi câu hỏi mang nội
dung tích hợp như sau: ? Ngoài dân ca Huế, em còn biết những vùng dân ca nổi
tiếng nào khác trên đất nước ta cũng thể hiện nỗi lòng khát khao, nỗi mong chờ
hoài vọng của tâm hồn?
? Hãy hát một làn điệu dân ca mà em thích?
Ví dụ 2:
Trong bài “ Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử” có thể hỏi câu mang nội
dung tích hợp như sau:
? Ngoài cây cầu Long Biên, em còn biết những cây cầu nổi tiếng nào khác
chứng nhân cho thời kỳ đổi mới trên đất nước ta?
? Hãy giới thiệu một trong những cây cầu đó?
Do yêu cầu gắn với đời sống, giúp HS hoà nhập hơn nữa với đời sống nên
phạm vi tích hợp nổi bật trong dạy học văn bản nhật dụng sẽ tạo nhiều cơ hội cho
HS liên hệ ý nghĩa văn bản nhật dụng được học đối với đời sống xã hội và cộng
đồng của bản thân.
Ví dụ 3:
Trong văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” có thể hỏi câu hỏi nội
dung tích hợp như sau:
? Qua phương tiện thông tin đại chúng (đài phát thanh, truyền hình, báo chí,
mạng internet…) em có thêm chứng cớ nào về nguy cơ chiến tranh hạt nhân vẫn đe
doạ cuộc sống trái đất?
? Em dự định sẽ làm gì để tham gia vào bản đồng ca của những người đòi
hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng như đề
nghị của nhà văn Gác-xi-a Mác-két?
Từ những vấn đề trên có thể khái quát: Dạy học văn bản nhật dụng theo
phương hướng tích hợp gắn kết đọc - hiểu của văn bản với các tri thức tương ứng
PTBĐ (tích hợp với tập làm văn), với các tri thức ngoài văn bản liên quan đến chủ
đề của các văn bản nhật dụng (tích hợp đọc văn với các kiến thức liên quan). Đặc
biệt gắn kết chủ đề nhật dụng gợi lên từ văn bản với các phạm vi tương ứng của
đời sống xã hội của cá nhân và cộng đồng hiện đại (tích hợp gắn với đời sống).
+ Dạy học tích cực
Để đáp ứng quan điểm dạy học tích cực trong văn bản nhật dụng thì giáo viên
phải lựa chọn kết hợp các biện pháp dạy học, các cách tổ chức dạy học, các
phương tiện dạy học có thể khai thác tốt nhất năng lực tự học của HS.
Thu thập, sưu tầm các nguồn tư liệu ngoài văn bản liên quan đến nội dung
văn bản là công việc dạy học chủ động và tích cực của GV và HS trong khâu
chuẩn bị bài học.
Đọc thật kỹ các chú thích về sự kiện, hiện tượng hay vấn đề
Ví dụ : Chú thích 1, 3 bài “ Tuyên bố thế giới về sự sống còn…” (lớp 9); 1, 2,
3, 4, 5 bài “ Đấu tranh cho một thế giới... ” (lớp 9)
Có ý kiến quan niệm riêng, có đề xuất giải pháp.
Ví dụ: Chống hút thuốc lá, đổ rác bừa bãi, không dùng bao bì nilông…
Căn cứ vào đặc điểm thể loại, phân tích các chi tiết cụ thể về hình thức biểu
đạt để khái quát chủ đề.
Kết hợp xem tranh, ảnh, nghe và xem các chương trình thời sự, khoa học,
truyền thông trên ti-vi, đài và các sách báo hàng ngày.
Nhưng xử lí nguồn thông tin đó theo cách nào để tích cực hoá hoạt động dạy
học văn bản nhật dụng? Đó sẽ là lựa chọn các thông tin bên ngoài phù hợp với
từng nội dung bên trong văn bản được giới thiệu trực tiếp hoặc qua phương tiện
điện tử, cùng với lời thuyết minh ngắn của GV hoặc HS để làm rõ hơn nội dung
nhật dụng cả văn bản được học
Ví dụ 1: Trong bài học “ Ca Huế trên sông Hương” GV có thể phát qua đầu
VCD một làn điệu dân ca Huế quen thuộc diễn tả lòng khát khao, nỗi mong chờ
hoài vọng tha thiết của tâm hồn Huế và có thể sử dụng câu hỏi:
? Cách biểu diễn và thưởng thức ca Huế ở miền Trung có gì giống với thưởng
thức dân ca quan họ ở miền Bắc?
? Từ tác động của ca Huế, em nghĩ gì về sức mạnh của dân ca nói chung
đối với tâm hồn con người?
Ví dụ 2:
Trong bài “ Ôn dịch, thuốc lá” có thể thống kê các con số nói về sự huỷ hoại
của thuốc lá đến sức khoẻ con người, kết hợp thuyết minh ngắn về các tranh ảnh
sưu tầm được.
Chẳng hạn, dạy học bằng trò chơi trong bài học “ Ca Huế trên sông Hương”
có thể là thi sưu tầm vẻ đẹp của văn hoá Huế; thi giới thiệu về nhã nhạc cung đình
Huế - di sản văn hoá thế giới; thi hát dân ca các vùng miền.
Còn trong bài “Ôn dịch, thuốc lá” trò chơi có thể là : thi kể chuyện người thật,
việc thật và công bố tư liệu đã thu thập được về tác động xấu của thuốc lá đến lối
sống của con người; mỗi HS đóng một vai xã hội ( là nhà báo, tuyên truyền viên,
hoạ sĩ…) để trình bày hành động tham gia vào chiến dịch chống thuốc lá rộng
khắp hiện nay ( thưởng điểm)
Sự gần gũi, thiết thực của các chủ đề nhật dụng trong bài học, mục đích giúp
HS hoà hợp hơn nữa với cuộc sống xã hội đòi hỏi không khí giờ học văn bản nhật
dụng cần thiết thể hiện nhiều hơn tính dân chủ và hào hứng trong hoạt động này,
nhất là hoạt động học.
GV tạo cơ hội nhiều nhất cho mọi HS tham gia tìm hiểu văn bản theo cách tự
sưu tầm và thuyết minh tư liệu liên quan đến chủ đề bài văn.
Tự bộc lộ ý kiến khi đọc – hiểu văn bản dưới hình thức cá nhân hay nhóm học
tập. Tổ chức các hình thức trò chơi gọn nhẹ, thiết thực minh hoạ chủ đề văn bản
cho các nhóm thi đua và tự chấm điểm… là thể hiện tinh thần dân chủ trong dạy
học văn bản nhật dụng.
Nói tóm lại dạy học văn bản nhật dụng theo phương pháp tích cực phải đa
dạng hoá các biện pháp dạy học, các cách tổ chức dạy học, các phương tiện dạy
học theo hướng hiện đại hoá.
Tích hợp với đọc - hiểu văn bản nhật dụng: thu thập, sưu tầm, xử lí các nguồn
tư liệu, minh hoạ và mở rộng kiến thức thức theo nội dung VB nhật dụng trên các
kênh thông tin; coi trọng đàm thoại cá nhân và nhóm về VB bằng hệ thống câu hỏi
Trong đó sử dụng nhiều hơn hình thức học theo nhóm và câu hỏi liên hệ ý
nghĩa văn bản với hoạt động thực tiễn cúa cá nhân và cộng đồng xã hội hiện nay;
sáng tạo trò chơi dạy học đơn giản, nhanh gọn minh hoạ chủ đề văn bản nhật dụng;
tăng cường sử dụng phương tiện dạy học hiện đại để đẩy nhanh nhịp điệu dạy học
và gia tăng lượng thông tin trong bài học văn bản nhật dụng trên lớp; tạo không khí
dân chủ, hào hứng trong giờ học văn bản nhật dụng.
•
MỘT SỐ BÀI SOẠN MÉU.
Tiết 125: BỨC THƯ CỦA THỦ LĨNH DA ĐỎ (T1)
A/ MỤC TIÊU:
1. Kiến thức:
-Ý nghĩa của việc bảo vệ môi trường.
-Tiếng nói đầy tình cảm và trách nhiệm đối với thiên nhiên, môi trường sống
của vị thủ lĩnh Xi-át-tơn.
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "Nâng cao hiệu quả học văn bản nhật dụng trong chương trình ngữ văn bậc trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- nang_cao_hieu_qua_hoc_van_ban_nhat_dung_trong_chuong_trinh_n.doc