Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT
Xu thế hội nhập toàn cầu và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có giáo dục. Giáo dục Việt Nam nhiều năm qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong quá trình nỗ lực “đổi mới cơ bản và toàn diện”. Song, không thể phủ nhận toàn ngành đang có chung mối lo và trăn trở: một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên Việt Nam trước cơn lốc hội nhập đang có sự xuống cấp, lệch chuẩn đạo đức và thiếu hụt những GTS căn bản; sự khủng hoảng niềm tin bản thân và cộng đồng; lối sống “thiếu nhân tính, xa rời quốc tính và nhạt nhòa cá tính”; thiếu ý thức bảo vệ môi sinh; tình trạng bạo lực, phạm pháp, sa vào các tệ nạn xã hội…
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Xu thế hội nhập toàn cầu và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ tạo ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức
đối với mọi lĩnh vực đời sống, trong đó có giáo dục. Giáo dục Việt Nam nhiều năm
qua đã đạt được những thành tựu đáng tự hào trong quá trình nỗ lực “đổi mới cơ
bản và toàn diện”. Song, không thể phủ nhận toàn ngành đang có chung mối lo và
trăn trở: một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên Việt Nam trước cơn lốc hội nhập
đang có sự xuống cấp, lệch chuẩn đạo đức và thiếu hụt những GTS căn bản; sự
khủng hoảng niềm tin bản thân và cộng đồng; lối sống “thiếu nhân tính, xa rời
quốc tính và nhạt nhòa cá tính”; thiếu ý thức bảo vệ môi sinh; tình trạng bạo lực,
phạm pháp, sa vào các tệ nạn xã hội… Bởi vậy“giáo dục giá trị sống, tổ chức rèn
luyện cho thanh thiếu niên sống xứng đáng với hệ giá trị trong nền văn hóa truyền
thống cao cả của dân tộc và cập nhật nền văn hóa tiên tiến của thời đại đang là
điều cấp thiết cho toàn bộ nền giáo dục của đất nước”. Phong trào “Xây dựng
trường học thân thiện, HS tích cực”, đề án “Tăng cường giáo dục lí tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống cho thanh thiếu niên và nhi đồng giai đoạn 2015 -2020”,
“Mô hình Trường học hạnh phúc”… chính là một trong số những định hướng chỉ
đạo của ngành trong những năm qua nhằm giáo dục GTS cho HS, bên cạnh việc
giáo dục tri thức và giáo dục kĩ năng. Đặc biệt, năm học 2019 - 2020, ngành giáo
dục xác định “việc dạy người, dạy đạo đức, lối sống, giá trị sống, kĩ năng sống cho
học sinh phải là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu và quyết tâm triển
khai hiệu quả”.
2. Nhận thức được tính cấp thiết và trách nhiệm của hệ thống nhà trường trong
việc giáo dục GTS và phát triển nhân cách cho người học, nhiều trường phổ thông
(đặc biệt là những trường công lập tự chủ, dân lập, tư thục, quốc tế…) đã xây dựng
hệ GTS cốt lõi làm triết lí giáo dục của trường mình, đồng thời đưa “Chương trình
giáo dục các GTS” (Leaving Valus an educationalprogram, viết tắt là LVEP) vào
dạy học chính khóa trong nhà trường rất hữu ích. Còn lại, phần lớn các trường phổ
thông nói chung và trên địa bàn Nghệ An nói riêng, do quá tải về dạy học kiến thức
và áp lực thành tích nên chỉ có thể triển khai lồng ghép giáo dục GTS trong một số
môn học và chuyên đề ngoại khóa, hoạt động tập thể, hoạt động trải nghiệm sáng
tạo của nhà trường. Định hướng giá trị chưa rõ, các cách thức chưa được thiết kế
để hướng vào truyền đạt các giá trị một cách hiệu quả nên mục đích của giáo dục
GTS ở những cơ sở này chưa đạt được kết quả như mong đợi. Ngoài ra, việc tập
huấn bồi dưỡng giáo viên hằng năm nhất là đối tượng GVCN lớp để tổ chức giáo
dục GTS cho HS trong các nhà trường cũng chưa được các cấp quản lí giáo dục
quan tâm một cách đúng mức như tính cấp bách của nó. Đặc biệt, ghi nhận số ít
GVCN đã nhận thức sâu sắc về “sứ mệnh của người thầy” và với lòng yêu nghề,
yêu trẻ luôn nỗ lực hoàn thiện nhân cách bản thân trở thành tấm gương sống đẹp
1
cho HS, đồng thời biết chủ động tích hợp giáo dục GTS vào trong các bài giảng và
trong công tác chủ nhiệm lớp của mình, giúp HS biết nêu cao những giá trị nhân
bản tốt đẹp của con người để tự điều chỉnh và hoàn thiện nhân cách.
Rõ ràng, việc giáo dục GTS cho HS trong các trường phổ thông là vấn đề “cấp
thiết”, “cấp bách”, “quan trọng”, “cần được chú trọng”, “một trong nhưng nhiệm
vụ ưu tiên hàng đầu”… nhưng thực tế vẫn bị coi nhẹ, việc “dạy chữ” còn nặng hơn
“dạy người”. Giáo dục GTS trong các trường học lâu nay đã triển khai nhưng thực
hiện thiếu tính hệ thống, đồng bộ và hiệu quả. Vẫn còn có một khoảng trống trong
dạy GTS, vẫn còn có một độ vênh nhất định trong việc thực hiện ba nội dung cơ
bản của giáo dục nhà trường: giáo dục tri thức - giáo dục giá trị - giáo dục kĩ năng.
3. Trước yêu cầu và thực tiễn dạy học đó, chúng tôi trăn trở, tìm tòi, nghiên
cứu biện pháp giáo dục GTS cho HS một cách tối ưu và mới mẻ trong phạm vi
hoạt động quản lí và giáo dục HS của người GVCN. Đề tài nghiên cứu nhằm đáp
ứng mục tiêu giáo dục GTS và mục tiêu giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới dạy
học phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội của đất nước và xu thế giáo dục
hiện đại. Trên tinh thần đó, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn và áp dụng sáng kiến:
“Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường
THPT”
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất
giải pháp giáo dục GTS cho HS của GVCN ở trường THPT trên địa bàn.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Phương pháp Test
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
IV. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Phần một: Đặt vấn đề
Phần hai: Nội dung
Phần ba: Kết luận
2
NỘI DUNG
I. Cơ sở của đề tài
1. Cơ sở lí luận
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Giá trị
Giá trị: dt. 1. Cái có ích và đáng quý. 2. Chỉ mức độ, hiệu lực đến đâu (Theo
Từ điển Tiếng Việt - NXB Khoa học xã hội)
Theo nghĩa chung nhất như J. H. Fichter nhà xã hội học Mĩ, xác định: “Tất cả
những gì có ích, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội
đều có một giá trị”.
1.1.2. Giá trị sống
Nói đến GTS là muốn nói đến những giá trị thiết thực cho cuộc sống của từng
cá nhân con người đang sống, hoạt động gắn liến với kĩ năng sống, giúp con người
ta sống và làm việc hiệu quả hơn cho cá nhân và xã hội.
GTS (hay giá trị của cuộc sống) là những điều mà con người ta cho là quý giá,
là quan trọng, là có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người, khiến mỗi người
mong muốn lĩnh hội, thể hiện ra để cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn và góp
phần cải thiện cuộc sống chung. GTS trở thành động lực giúp người ta nỗ lực phấn
đấu đạt được nó.
Như vậy, GTS chủ yếu hướng vào giá trị tinh thần (không đề cập đến giá trị
tiền bạc, giàu sang, sức khỏe…) và chú ý đến các bình diện sau:
- Những giá trị phẩm chất nhân cách đạo đức bản thân (Khoan dung, Khiêm
tốn, Giản dị, Trung thực, Yêu thương, Hạnh phúc …)
- Những giá trị quan hệ liên nhân cách, quan hệ với nhóm, với cộng đồng (Tôn
trọng, Đoàn kết, Trách nhiệm, Hợp tác …)
- Những giá trị chung (Hòa bình, Tự do)
1.1.3. Giáo dục giá trị sống
Giáo dục GTS cho HS là quá trình giúp HS tiếp thu, lĩnh hội những giá trị phổ
quát của xã hội, biến thành những giá trị đặc trung của bản thân mỗi HS, giúp các
em có suy nghĩ, thái độ và hành động tích cực, hiệu quả, phù hợp với bản thân và
đáp ứng mong đợi của cộng đồng, xã hội.
1.2. Nội dung và phương pháp giáo dục GTS cho HS THPT
1.2.1 Nội dung giáo dục GTS cho HS THPT
Ngoài những giá trị truyền thống của nhân cách con người Việt Nam như
lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, lạc quan yêu
đời, nhân nghĩa, lòng yêu thương và quý trọng con người… được giáo dục
3
trong các môn học chính khóa, nhà trường cần trang bị cho HS những GTS
phổ quát, mang tính nhân loại. Vậy những giá trị phổ quát là những giá trị nào?
Năm 1995, Chương trình GTS lần đầu tiên được đưa ra, 186 thành viên trong
tổ chức Liên hợp quốc đã chọn ra 12 giá trị cốt lõi nhất mang tính chung toàn
cầu. Chương trình đã triển khai ở rất nhiều nước khác nhau trên thế giới, với
mục tiêu chung nhằm kêu gọi sự chia sẻ các giá trị cho một thế giới tươi đẹp
hơn. Các giá trị này đều đã có trong mỗi con người bất kể sự khác nhau về
quốc tịch, màu da và văn hóa. Khi mọi người cùng vươn tới những giá trị đó,
họ sẽ xích lại gần nhau, chia sẻ, cảm thông với nhau và cuộc sống của tất cả
mọi người trên trái đất đều thống nhất với nhau trong thế giới hòa bình, tôn
trọng, hạnh phúc.
Dưới đây là nội hàm của những giá GTS phổ quát chung của nhân loại cần
được giáo dục cho HS hiện nay. Các tổ chức quốc tế hi vọng đưa những GTS
này vào giáo dục cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới có thể sẽ xây dựng thế giới
thành ngôi nhà chung toàn cầu tự do, hòa bình, hợp tác, hạnh phúc.
- Hòa bình: 1. Dt. Trạng thái yên tĩnh không có chiến tranh. 2. Tt. Không
dùng đến vũ lực, không gây chiến tranh (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Hòa bình không đơn giản chỉ là không có chiến tranh với súng đạn. Hòa
bình là khi chúng ta sống hòa thuận và không có sự đấu đá lẫn nhau. Nếu mỗi
người trong chúng ta được yên ổn, đó sẽ là một thế giới hòa bình.
Hòa bình còn có nghĩa là đang sống trong sự thinh lặng của nội tâm. Hòa
bình là trạng thái bình tĩnh và thư thái của trí óc.
Hòa bình bắt đầu trong mỗi người. Xuyên qua sự thinh lặng và sự suy nghĩ
đúng đắn về ý nghĩa của nó, con người có thể tìm được nhiều cách mới mẻ và
sáng tạo để tạo thuận lợi cho sự hiểu biết về các mối quan hệ và sự hợp tác với
tất cả mọi người.
Những nội dung chính liên quan đến chủ đề hòa bình mà giáo dục có thể
mang lại cho người học là: sự khước từ bạo lực, khoan dung, vị tha, đoàn kết,
chia sẻ với mọi người, quan tâm và tôn trọng lẫn nhau.
- Tự do: dt. Quyền sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện của mình
không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Tất cả mọi người đều có quyền tự do. Trong sự tự do ấy, mỗi người có bổn
phận tôn trọng quyền lợi của những người khác. Tự do tinh thần là một kinh
nghiệm khi bạn có những suy nghĩ tích cực về tất cả, kể cả về chính bạn. Tự do
thuộc lĩnh vực của lí trí và tâm hồn.
Tự do là một món quà quý giá. Chỉ có thể tự do thật sự khi các quyền lợi
cân bằng với trách nhiệm. Xã hội chỉ có tự do thực sự khi mọi người có được
quyền bình đẳng.
4
- Tôn trọng: đgt. 1. Coi trọng và quý mến. 2. Tuân thủ, không coi thường
và vi phạm (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Tôn trọng trước hết là tự trọng, là biết rằng tự bản thân có giá trị. Một phần
của tự trọng là nhận biết những phẩm chất của chính bạn. Tôn trọng là biết
lắng nghe người khác. Tôn trọng là biết người khác cũng có giá trị như bạn.
Tôn trọng chính bản thân là cách làm tăng sự tin cậy lẫn nhau.
Khi chúng ta tôn trọng chính mình, chúng ta sẽ dễ dàng tôn trọng người
khác. Những ai biết tôn trọng sẽ nhận được sự tôn trọng. Hãy biết rằng mỗi
người đều có giá trị và khi thừa nhận giá trị của người khác thì thế nào cũng sẽ
chiếm được sự tôn trọng từ người khác.
Một phần của sự tôn trọng là sự tự ý thức rằng bản thân bạn có sự khác biệt
với người khác trong cách đánh giá.
- Hợp tác: đgt. Chung sức, trợ giúp qua lại với nhau (Theo Từ điển Tiếng
Việt).
Hợp tác là khi mọi người biết làm việc chung với nhau và cùng hướng về
một mục tiêu chung. Một người biết hợp tác thì thường sẽ có cách nói thuyết
phục và cảm giác trong sáng về người khác cũng như đối với nhiệm vụ.
Một người biết hợp tác cần thể hiện và đưa ra và đóng góp bằng cách đưa
ra các ý tưởng cần thiết để phát triển cá nhân và tập thể, đồng thời lắng nghe ý
kiến về tập thể.
Hợp tác phải được chỉ đạo bởi nguyên tắc về sự tôn trọng lẫn nhau.
Một người biết hợp tác sẽ nhận được sự hợp tác. Khi có sự yêu thương thì
sẽ có sự hợp tác. Khi bạn nhận thức được những giá trị của cuộc sống thì chính
bản thân bạn có khả năng tạo ra sự hợp tác
Sự can đảm, quan tâm, chăm sóc và đóng góp là sự chuẩn bị đầy đủ cho
việc tạo ra sự hợp tác.
- Đoàn kết: đgt. Thống nhất ý chí, không mâu thuẫn, chống đối nhau (Theo
Từ điển Tiếng Việt).
Đoàn kết là sự hòa thuận, đóng góp của mỗi cá nhân và giữa các cá nhân
trong một nhóm, một tập thể vì một mục đích hay một công việc chung nào đó
mà không làm phương hại đến lợi ích của người khác. Đoàn kết được tồn tại
nhờ sự chấp nhận và hiểu rõ giá trị của mỗi người, cũng như biết đánh giá
đúng sự đóng góp của họ đối với tập thể.
Đoàn kết được xây dựng qua việc chia sẻ các mục tiêu, niềm hi vọng và
viễn cảnh tương lai. Khi một tập thể đoàn kết, nhiệm vụ lớn dường như dễ
dàng thực hiện. Đoàn kết tạo ra cho tất cả mọi người cảm giác được tôn trọng.
Sự thiếu tôn trọng dù là nhỏ có thể là lí do làm cho mất đoàn kết. Đoàn kết sẽ
tạo nên sức mạnh to lớn, chiến thắng mọi khó khăn, thử thách.
5
Đoàn kết tạo nên kinh nghiệm về sự hợp tác, giúp mọi người hăng hái trong
khi thực hiện nhiệm vụ và tạo ra một bầu không khí thân thiện. Đoàn kết tạo ra
cảm giác hạnh phúc êm ái và gia tăng sức mạnh cho mọi người, giúp mọi
người trở nên gần gũi, thân ái với nhau hơn, tạo ra niềm vui trong cuộc sống.
Đoàn kết tạo nên ý thức về bổn phận và tăng cường bản chất tốt đẹp của
mọi người.
Đoàn kết khác với bè phái. Bè phái là sự liên kết của một nhóm người có
mục đích không trong sáng, thiếu lành mạnh nhằm đối lập với những người
khác.
Đoàn kết là nền tảng của sự phát triển bền vững. Có đoàn kết mới có dân
chủ. Trong xu thế hội nhập hiện nay của thế giới, đoàn kết càng trở nên có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Chúng ta phải biết đoàn kết để tạo nên sức mạnh tổng
hợp, cùng hướng tới một sự phát triển bền vững.
- Trung thực: tt. Ngay thẳng, thật thà. 2. Đúng như vốn có, đúng như sự
thật (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Trung thực nghĩa là không có sự khác biệt giữa tư tưởng, lời nói, hay việc
làm và khiến mọi người gần nhau hơn.
Khi trung thực con người cảm thấy tâm hồn trong sáng và nhẹ nhàng. Một
người trung thực và chân chính thì xứng đáng được tin cậy.
Trung thực thể hiện trong tư tưởng, lời nói và hành động thì đem lại sự hòa
thuận. Trung thực là sử dụng tốt những gì được ủy thác, là cách xử sự tốt nhất,
là một mối quan hệ sâu xa giữa lương thiện và tình bạn.
Khi sống trung thực, một người có thể học và có thể giúp người khác học
cách biết trao tặng. Tính tham lam đôi khi là cội rễ của sự bất lương. Người
sống trung thực sẽ biết thế nào là đủ, không tham lam. Khi nhận thức được về
mối quan hệ với nhau, chúng ta sẽ nhận ra được tầm quan trọng của lòng trung
thực.
- Trách nhiệm: dt. Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Trách nhiệm là việc bạn góp phần của mình vào công việc chung. Trách
nhiệm là thực hiện nhiệm vụ với lòng trung thực.
Muốn có hòa bình, chúng ta phải có trách nhiệm tạo ra sự yên ổn. Muốn có
một thế giới hài hòa, chúng ta phải có trách nhiệm chăm sóc thiên nhiên. Một
người được coi là có trách nhiệm khi người đó đồng ý góp phần để gánh vác
công việc chung với các thành viên khác.
Người có trách nhiệm sẽ có nhu cầu làm nhiều hơn những việc xứng đáng
để góp phần cùng người khác xây dựng nên một cuộc sống tốt đẹp hơn cho
nhóm, cho cộng đồng. Một người có trách nhiệm thì biết thế nào là lẽ phải, là
6
cái đẹp, nhận ra được điều gì tốt để góp phần. Quyền lợi gắn liền với trách
nhiệm. Trách nhiệm là biết cách sử dụng tiềm lực và tài nguyên của con người
để tạo ra những thay đổi tích cực.
- Khiêm tốn: tt. Không đánh giá quá cao bản thân, không tự kiêu, tự mãn
(Theo Từ điển Tiếng Việt).
Người khiêm tốn thường có biểu hiện là nói năng nhẹ nhàng, ăn mặc giản
dị, khiêm tốn gắn liền với tự trọng. Khiêm tốn là khi bạn nhận biết khả năng,
uy thế của mình, nhưng không khoác lác, khoe khoang.
Người khiêm tốn tìm được niềm vui khi lắng nghe người khác. Khi cân
bằng được giữa lòng tự trọng và khiêm tốn, bạn có sức mạnh và tâm hồn để tự
điều khiển và kiểm soát chính mình. Khiêm tốn giúp con người có một trí óc
cởi mở.
Bằng sự khiêm tốn bạn có thể nhận ra sức mạnh của bản thân và khả năng
của người khác.
- Khoan dung: đtg. Rộng lượng tha thứ cho người phạm lỗi lầm (Theo Từ
điển Tiếng Việt).
Khoan dung là tôn trọng thông qua sự hiểu biết lẫn nhau. Hòa bình là mục
tiêu, khoan dung là phương pháp. Khi biết khoan dung, con người trở nên cởi
mở và chấp nhận sự khác biệt với những vẻ đẹp của nó.
Mầm mống của sự cố chấp là sợ hãi và dốt nát. Hạt giống khoan dung và
yêu thương cần được tưới chăm bởi lòng trắc ẩn và sự ân cần quan tâm đến
nhau. Người khoan dung thì biết rút ra những điều tốt từ người khác cũng như
trong các tình thế. Khoan dung là chấp nhận cá tính và sự đa dạng, đồng thời
biết cách dàn xếp mầm mống gây chia rẽ, bất hòa và tháo gỡ ngòi nổ của sự
căng thẳng được tạo ra bởi sự dốt nát.
- Giản dị: tt. Đơn giản, bình dị, không rối rắm phức tạp (Theo Từ điển
Tiếng Việt).
Giản dị là sống một cách tự nhiên, không giả tạo. Khi bạn quan sát thiên
nhiên, bạn sẽ biết giản dị là như thế nào.
Giản dị là chấp nhận hiện tại và không làm mọi điều trở nên phức tạp.
Người giản dị sẽ thích suy nghĩ và lập luận rõ ràng. Giản dị dạy chúng ta biết
tiết kiệm – biết cách sử dụng tài nguyên, tiềm năng một cách khôn ngoan; biết
hoạch định đường hướng cho tương lai. Giản dị giúp bạn kiên nhẫn, làm nảy
sinh tình bạn và khả năng nâng đỡ.
Giản dị là hiểu rõ giá trị của những vật chất dù là nhỏ bé nhất trong cuộc
sống.
- Yêu thương: đgt. Có tình cảm gắn bó thiết tha và hết lòng quan tâm, săn
sóc (Theo Từ điển Tiếng Việt).
7
Yêu người khác cũng đồng nghĩa với việc mong muốn những điều tốt đẹp
cho họ. Yêu là biết lắng nghe và chia sẻ.
Khi yêu thương trọn vẹn, giận dữ sẽ tránh xa. Tình yêu là giá trị làm cho
mối quan hệ giữa chúng ta trở nên tốt hơn.
Trong một thế giới tốt đẹp, quy luật tự nhiên là yêu thương; và trong một
con người tốt, bản chất tự nhiên là sự thương yêu. Tình yêu mang tính phổ quát
không có biên giới hoặc sự thiên vị, tình yêu lan tỏa đến tất cả mọi người. Tình
yêu ở quanh ta và ta có thể cảm nhận được nó. Giá trị của tình yêu là ở chỗ nó
như là một chất xúc tác tạo nên sự thay đổi, phát triển và thành đạt. Tình yêu là
nhìn nhận mỗi người theo cách tốt đẹp hơn. Tình yêu thật sự luôn bao hàm
lòng tốt, sự quan tâm, hiểu biết và không có những hành vi ghen tị cũng như
kiểm soát người khác.
- Hạnh phúc: 1. dt. Cuộc sống, trạng thái sung sướng do thỏa mãn được ý
nguyện. 2. tt. Có hạnh phúc (Theo Từ điển Tiếng Việt).
Hạnh phúc là trạng thái bình an của tâm hồn khiến con người không có
những thay đổi đột ngột hay bạo lực. Khi bạn trao hạnh phúc thì bạn sẽ nhận
được hạnh phúc. Khi bạn hi vọng, đó là lúc hạnh phúc. Khi bạn yêu thương, sự
bình an nội tâm và hạnh phúc sẽ đến.
Nói những lời tốt đẹp về mọi người đem lại hạnh phúc nội tâm. Những
hành động trong sáng và quên mình sẽ đem đến hạnh phúc. Hạnh phúc lâu bền
là trạng thái của sự hài lòng bên trong.
Khi hài lòng với chính mình, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc. Khi bạn
hạnh phúc, bạn sẽ đem lại hạnh phúc cho thế giới vì hạnh phúc sinh ra hạnh
phúc.
Giá trị cốt lõi của con người là sự bình an. Cho đến khi chúng ta chưa trải
nghiệm được sự bình an, thì chưa thể trải nghiệm được hạnh phúc.
Tóm lại, 12 giá trị nêu trên cần được cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi của từng lứa tuổi, từng cấp học. Đối với HS tiểu học, cần chú ý đến những
giá trị gần gũi HS như: yêu thương, tôn trọng, hợp tác, khoan dung, khiêm tốn,
giản dị, trung thực… những giá trị mà các em có thể học và hành, lĩnh hội và
trải nghiệm trong cuộc sống hằng ngày. Đối với HS trung học cơ sở, trên cơ sở
tiếp tục phát triển những giá trị đã hình thành ở tiểu học, chú ý đến những giá
trị hướng vào quan hệ nhóm, tập thể, xã hội…Đặc biệt chú ý đến những giá trị
khiêm tốn, giản dị, trung thực… làm tăng giá trị bản thân, tăng phẩm chất nhân
cách.
Riêng đối với HS THPT, cần hệ thống hóa những giá trị phổ quát, nhưng
mở rộng và nâng nội dung lên một tầm cao mới, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống hiện đại và hội nhập toàn cầu. Nội dung của những GTS đối với HS phổ
thông cần hướng các em đến hoàn thiện nhân cách một người thanh niên, một
8
công dân, hướng đến một nhân cách nghề nghiệp, những giá trị tinh hoa bản
sắc dân tộc, những GTS phổ quát của nhân loại; hướng các em đến một lối
sống hài hòa giữa đời sống cá nhân – bạn bè – tình yêu – sự nghiệp – trách
nhiệm xã hội … Cũng có thể nói là hướng các em vươn tới nhân cách lí tưởng
mang những GTS phổ quát của một thanh niên thời đại, không chỉ của dân tộc
mà còn là của nhân loại trong một thế giớ mở.
1.2.2 Phương pháp giáo dục GTS cho học sinh THPT
Làm thế nào để dạy về các giá trị? Làm thế nào để khuyến khích HS khám
phá, tìm hiểu và phát triển các giá trị cũng như những kĩ năng sống, thái độ
sống, nhằm giúp họ phát huy hết tiềm năng sẵn có của mình? Và làm thế nào
để HS biết mình có thể tạo nên sự khác biệt trên thế giới này và cảm thấy bản
thân có đủ khả năng tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn? Những câu hỏi đó
chứng tỏ rằng giáo dục GTS cần trải qua một quá trình vừa mang tính khoa
học, vừa mang tính nghệ thuật cao. Chương trình giáo dục Giá trị sống
(LVEP) của UNESCO đã đưa ra khung lí thuyết phương pháp giáo dục GTS
như sau:
- Bước một, xây dựng bầu không khí dựa trên nền tảng các giá trị để tất cả
mọi người đều cảm nhận được tình yêu thương, thấy mình có giá trị, được tôn
trọng và an toàn.
- Bước hai, thấu hiểu các yếu tố hỗ trợ khám phá các giá trị. Mỗi hoạt
động GTS bắt đầu với ba yếu tố hỗ trợ khám phá các giá trị bao gồm: tiếp nhận
thông tin, suy ngẫm, và khám phá các giá trị qua thực tế cuộc sống. Cụ thể là :
+ Tiếp nhận thông tin: Đây là cách dạy về giá trị theo kiểu truyền thống.
Sách vở, kể chuyện, các nguồn thông tin có thể trở thành trợ thủ đắc lực trong
việc khám phá các giá trị.
+ Suy ngẫm: Các hoạt động tưởng tượng và suy ngẫm đòi hỏi học viên phải
đưa ra những ý tưởng của riêng mình.
+ Khám phá các giá trị qua thực tế cuộc sống: Giáo viên cần nắm vững
rằng HS là lứa tuổi rất ham tìm tòi, hiểu biết những gì đang diễn ra quanh
mình, vì thế hãy tìm những lĩnh vực mà HS quan tâm, như AIDS, nghèo đói,
bạo lực, ma túy, tham nhũng, tình trạng ô nhiễm tại địa phương… Những lĩnh
vực này sẽ gợi mở chủ đề thảo luận rất thực tế, thiết thực về tác động của giá
trị và phản giá trị, cũng như hành động của chúng ta tạo nên sự khác biệt như
thế nào.
- Bước ba, tổ chức thảo luận: Việc tạo một không gian thảo luận cởi mở,
tôn trọng lẫn nhau là điều rất quan trọng và cần thiết. Một không gian như vậy
giúp việc chia sẻ trở nên dễ dàng và thoải mái hơn. Việc bày tỏ những cảm
giác, cảm nhận sau mỗi câu hỏi có thể làm sáng tỏ quan điểm cá nhân và tìm
được sự đồng cảm hơn. Thảo luận trong một môi trường mang tính hỗ trợ có
thể giúp hàn gắn, chữa lành tổn thương rất hiệu quả.
9
Quá trình thảo luận còn có thể giúp cho điều tiêu cực được chấp nhận và từ
đó tạo bầu không khí cởi mở để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực
này. Khi tất cả được thực hiện với sự tôn trọng chân thành, HS sẽ dần được
tháo bỏ được hàng rào phòng thủ và không còn biện minh cho tính tiêu cực
của mình. Một khi những giá trị tích cực được khám phá, các em sẽ cảm thấy
bản thân mình có giá trị, dần dần thấy tự do và có ý chí mạnh mẽ để hành động
khác đi.
- Bước bốn, khám phá các ý tưởng: Tiếp theo sau các cuộc thảo luận là hoạt
động tự suy ngẫm hoặc lên kế hoạch cho nhóm về những hoạt động nghệ thuật,
viết nhật kí, hoặc kịch… Những cuộc thảo luận khác sẽ giúp hình thành bản đồ
tư duy các giá trị và phản giá trị để xem xét tác động của giá trị và phản giá trị
đối với bản thân, mối quan hệ và xã hội. Các hoạt động giá trị có thể khơi dậy
niềm thích thú thật sự ở người học, cổ vũ cho quá trình học thật và thúc đẩy
chuyển hóa động cơ thành hành động cụ thể. Bước này giúp giáo viên hiểu và
hỗ trợ HS.
- Bước năm, đưa các giá trị vào cuộc sống: Thầy cô giáo hướng dẫn HS
ứng dụng các hành vi dựa trên nền tảng giá trị với gia đình, xã hội, môi trường.
Chính những việc cảm thấy bản thân có khả năng tạo nên sự khác biệt sẽ xây
dựng lòng tự tin và cam kết sống với các giá trị.
Dựa trên khung lí thuyết này nhà trường và giáo viên có thể áp dụng một
cách linh hoạt và sáng tạo phù hợp với đối tượng giáo dục, môi trường giáo
dục của lớp mình, trường mình.
1.3. GVCN ở trường THPT với công tác giáo dục GTS cho HS
1.3.1. Chức năng và hoạt động của GVCN ở trường THPT
- GVCN là thành viên của tập thể sư phạm và hội đồng sư phạm, là người thay
mặt hiệu trưởng, hội đồng nhà trường và cha mẹ HS quản lí và chịu trách nhiệm về
chất lượng giáo dục toàn diện HS lớp mình phụ trách, tổ chức thực hiện chủ
trương, kế hoạch của nhà trường ở lớp. Đối với HS và tập thể lớp, GVCN là nhà
giáo dục và là người lãnh đạo gần gũi nhất; người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển,
kiểm tra toàn diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi lớp
mình phụ trách dựa trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp, cán bộ Đoàn và tính tự giác
của mọi HS trong lớp. Ngoài ra, GVCN là người cố vấn công tác Đoàn ở lớp chủ
nhiệm. Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,
GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành và phát triển nhân cách HS và là cầu
nối giữa gia đình, nhà trường và ngoài xã hội
Chức năng của người GVCN lớp là lãnh đạo, tổ chức, quản lí, giáo dục tập thể
lớp trên cơ sở tổ chức các hoạt động giáo dục, các mối quan hệ giáo dục của HS
theo mục tiêu giáo dục nhân cách HS toàn diện trong tập thể phát triển và môi
trường học tập thân thiện.
10
- Từ đó, có thể thấy, công tác của GVCN gồm có hai hoạt động lớn: hoạt động
quản lí tập thể HS và hoạt động giáo dục HS.
+ Với tư cách là nhà quản lí, công tác quản lí tập thể HS của GVCN bao gồm
những công việc sau: Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm; Tổ chức bộ máy tự quản;
Triển khai kế hoạch chủ nhiệm; Giám sát, thu thập thông tin về lớp chủ nhiệm;
Cập nhật hồ sơ công tác chủ nhiệm và hồ sơ HS; Cố vấn cho Ban chấp hành chi
đoàn; Phối hợp với các lực lượng khác.
+ Với tư cách là nhà giáo dục, công tác giáo dục HS của GVCN bao gồm
những hoạt động sau: Phát triển tập thể HS thành môi trường lớp học thân thiện;
Triển khai các nội dung giáo dục toàn diện trong lớp chủ nhiệm; Tổ chức các hoạt
động và giao lưu tập thể; Giáo dục GTS và giáo dục kĩ năng sống cho HS ; Thực
hiện giáo dục kỉ luật tích cực; Giải quyết những tình huống bất ngờ; Tư vấn, tham
vấn cho HS trong việc ra quyết định giải quyết các vấn đề gặp phải trong cuộc
sống.
Với vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng như vây, đòi hỏi người GVCN
phải liên tục phát triển năng lực tổ chức quản lí giáo dục tập thể và cá nhân HS,
năng lực giao tiếp với cha mẹ HS và HS cũng như phẩm chất đạo đức nhà giáo.
1.3.2. Vai trò của GVCN trong việc giáo dục GTS cho HS THPT
Nhà trường là một thiết chế xã hội, thay mặt xã hội làm nhiệm vụ giáo dục HS
thành những con người theo mong đợi của gia đình, xã hội. Gia đình, nhà trường,
xã hội cùng có trách nhiệm giáo dục HS những GTS, để các em vững vàng, tự tin,
thành công trong cuộc sống, có khả năng ứng phó với những cạm bẫy, tiêu cực
trong xã hội. Cần kết hợp giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội theo chức năng và
vai trò của mình, trong đó nhà trường luôn có vai trò quyết định quyết định đối
với sự hình thành và phát triển GTS của các em, vì nhà trường có chức năng và
những điều kiện chuyên biệt, được xã hội giao cho để thực thi giáo dục thế hệ
trẻ. Nhà trường có phương thức giáo dục đặc trưng, đó là có chương trình, kế
hoạch giáo dục GTS đạt mục tiêu giáo dục của nhà trường và đáp ứng những
yêu cầu của xã hội.
Nếu nhà trường đóng vai trò quyết định thì GVCN đóng vai trò chủ đạo
quyết định đến chất lượng, hiệu quả giáo dục GTS cho HS của nhà trường. Bởi
GVCN không những thay mặt hiệu trưởng quản lí HS trong mọi hoạt động
giáo dục GTS của nhà trường mà còn trực tiếp giáo dục GTS cho HS thông
qua bộ môn mình giảng dạy và thông qua công tác chủ nhiệm của mình. Điều
đó đòi hỏi mỗi thầy cô giáo, mỗi nhà trường đều cần nhìn nhận lại vấn đề giáo
dục GTS cho HS và biết vận dụng hiệu quả tư tưởng học thường xuyên, học
suốt đời nhằm tạo cho HS động cơ thường xuyên, đúng đắn trong việc chọn lọc
và tiếp thu các giá trị để duy trì và phát huy trong cuộc sống hằng ngày.
11
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 11 trang mẫu của tài liệu "Biện pháp giáo dục giá trị sống cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- bien_phap_giao_duc_gia_tri_song_cho_hoc_sinh_cua_giao_vien_c.doc